Đời người từ nhỏ đến già, trải qua những tháng năm mưa gió, bãi bể nương dâu, cho đến cuối cùng tựu chung lại một câu: Hồng trần muôn trượng ba chén rượu; Đại nghiệp nghìn thu một ấm trà.
Rượu, thời xưa, trước tiên dùng trong lễ nghi: vô tửu bất thành lễ. Trong đời thường, rượu trong tiệc tùng, ăn uống , bạn bè gọi là nhậu. Người đàn ông Việt Nam xưa nay tự cho rằng Nam vô tửu như kỳ vô phong, và lắm người tự hào mình là đệ tử của Lưu Linh, một nhân vật văn học nổi tiếng về tửu lượng.
Rượu là một trong những phát minh kỳ diệu nhất của con người. Từ đời xưa, rượu được dùng để tế lễ thần linh, để các vua chúa tiếp đãi nhau, và cũng để mọi người dân chúc nhau trong những lúc vui vẻ, chẳng hạn vào dịp Tết đến xuân về. Nhưng trong rượu có một ma lực gì đó (ma men) làm cho người uống có thể thay đổi sắc thái, đôi khi không tự chủ được và có thể biến thành một người khác hẳn. Vì thế sách cổ có “xếp loại” khi uống rượu là Tiên tửu, Phật tửu, Cuồng tửu, Tục tửu hoặc Ti tửu. Rượu uống với người tri âm, tri kỉ, thổ lộ được với nhau những nỗi niềm tâm sự mà ngay cả người thân trong gia đình cũng không nói được. Lúc này càng uống càng tỉnh. Đó là Tiên tửu. Rượu uống say rồi ngủ khì, đó là Phật tửu. Rượu vào lời ra, nói năng văng mạng, ăn uống thô tục, gây gổ đánh nhau, đó làTục tửu. Mượn chén rượu để khích bác, bói xấu nhau một cách vô liêm sỉ, đó là Ti tửu (ti ở đây ta hiểu theo nghĩa ti tiện).
Trong dân gian có nhiều chuyện về trà và rượu, mặc dù hai thức uống đó không dùng cùng một lúc, nhưng sự thâm thúy của nó thì vô cùng bởi ngoài là thú ẩm thực, lại là cách để phòng bệnh:
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh nhứt trản trà
Nhất nhất đắc như thử
Lương y bất đáo gia
(Nửa đêm uống ba chung rượu
Sớm mai uống một chén trà
Ngày nào cũng làm như vậy
Thầy thuốc chẳng cần đến nhà).
Ta cũng hình dung được những thời khắc đó đối với người sành trà, rượu nó có ý nghĩa và giá trị như thế nào. Cái thanh vắng lúc nửa đêm thức giấc, chợt tỉnh mà uống đôi ba chén rượu, càng làm cho tâm hồn, trí óc thư thái minh mẫn, suy ngẫm thấu đáo sự đời, thân phận. Cũng như khi ánh mặt trời sắp ửng hồng, ló dạng trong màn sương và làn gió sớm ban mai, trong vắt âm thanh mà uống một cốc trà thì còn gì sảng khoái, tỉnh táo sau một đêm dài say ngủ, mơ màng.
Không hiếm những bữa rượu, cuộc rượu, tiệc rượu, cuốc rượu, tối rượu, chén rượu, mâm rượu, bàn rượu đã trở thành tri âm tri kỷ, trở thành câu hẹn, lời thề, sự trân trọng biết ơn, sự nhớ thương dịu vợi ở những con người lấy chữ tâm, chữ đức trong sáng làm trọng.
Rồi từ rượu, lại có những câu ám chỉ, đại loại: “Nam vô tửu, như kỳ vô phong” (Đàn ông không rượu, như lá cờ không có gió). Ý nói, rượu làm cho các đấng mày râu mới mạnh mẽ, dũng mảnh, oai vệ hơn. Nhưng sợ nhất là “Tửu nhập ngôn xuất” (Rượu vào lời ra), lại ra những lời dữ dằn, tục tĩu, không làm chủ được bản thân, gây lắm điều bất bình tai hại khôn lường, của đám “đệ tử Lưu Linh”, để cho ma men lung lạc.
Theo những thuyết đó, thì có đến ba bảy cách dùng rượu, dùng trà. Tưởng như “trà tam, tửu tứ” được coi như cái thú ở đời, mà mỗi thứ đều chứa đựng niềm vui thú hiếm hoi không dễ gì có được ở các loại ẩm thực khác. Nhưng mỗi việc hiểu một cách chính xác con số “tam và tứ” (trà ba, rượu bốn) mà cha ông ta truyền lại cũng đã khó khăn. “Ba và bốn” nó là số thứ tự hay là số lượng? Uống ba cốc trà và bốn chén rượu là đủ. Căn cứ vào đâu, lý do gì, vì sao chỉ uống chừng đó? Hay là ba người, bốn người cùng uống… Sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau cùng tồn tại. Mọi cách suy đoán đều được chấp nhận bởi đều có lý, tùy theo hoàn cảnh mà vận dụng khi nhắm rượu và thưởng trà, miễn sao, đều phải đẹp, vui và không làm phiền đến người khác.
Có người giải thích “trà tam” là cuộc trà chỉ nên có ba người. Ba người cùng tận hưởng thì mới vui, hai người vẫn là số ít, còn một người thì chả có gì lý thú, thi vị. Còn “tửu tứ” là bữa rượu phải có bốn người ngồi chạm ly (chén) đối ẩm thù tạc, khề khà với nhau qua hơi men mới thấm thía tận gan ruột. Như thế “tam, tứ” (ba, bốn) ở đây chỉ số lượng chủ thể là người uống.
Cũng có thuyết cho rằng, uống trà phải đủ ba cốc mới thưởng thức hết được cái hương vị chát ngọt của trà, lúc đó mới thông nhuận được thần khí hào sảng. Còn rượu phải bốn chén mới ngấm từ đầu lưỡi vào ngũ tạng và mùi vị sực nức mới đủ tỏa hương dẫn tới ngà ngà. Có một lập luận mềm dẻo hơn cho rằng “trà tam” là trà pha đến nước thứ ba mới đích thực nước cốt của trà cả về màu sắc lẫn tinh chất. Còn nước một chỉ là rửa trà, nước hai còn chát, cứng, nước thứ tư trở đi gần như loãng, nhạt, mùi vị rơi rớt. Như vậy, “trà tam” là nhấn mạnh đến phương thức pha chế và chất lượng của trà, chứ không phải loại trà nào cũng qua ba bước, ba bận mới ngon.
Còn rượu thì nồng độ phải là “sủi tăm”, “cuốc lủi”, sực nức cay nồng, không nhạt thếch, không cháy cổ mới là rượu ngon, nhắm đến chén thứ tư “tửu tứ” là vừa đủ độ ngà, là ranh giới giữa chừng mực và độ bốc, ngây ngất trong men, trong hương rượu. Mấy lý lẽ vừa nói, có lẽ là quá trình chiêm nghiệm, “tổng kết” của cha ông ta từng trải trong thế giới nhắm rượu, thưởng trà hàng mấy trăm năm mà ra.
Cụ Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến cũng nói thật lòng về cái bi, hài của bậc túc nho thi bá của các cụ:
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua”
Chỉ có “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của những người đồng chí hướng, những người thân, bạn hiền cùng ngồi với nhau trong cuộc rượu, cuộc trà thì mới bộc bạch, dịu vợi, như cởi tấm lòng. Không bao giờ kẻ đối nghịch, hung hãn, phản trắc có thể nhắm rượu, thưởng trà một cách văn hóa, thanh lịch. Nếu có, họ uống để bộc lộ hoặc che lấp hành vi phi đạo đức của kẻ tiểu nhân mà thôi. Không cần luận ra, mà nhãn tiền đã cho ta biết hai thái cực, hai đối tượng dùng rượu và trà trong thế gian như tiền nhân đã nói ở trên.
Nhân những ngày cuối năm, khi mà chúng ta luôn tất bật với các buổi kỷ niệm, tổng kết, liên hoan, nhắc lại một chút về văn hóa uống của tổ tiên, để thấy rằng cha ông ta đã luôn cố gắng biến sự uống thành văn hóa. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của các cụ, lấy nét đẹp của phong tục uống trà và rượu từ Tây phương hay từ đâu đó, biến thành của mình, ấy cũng là vừa kế thừa vừa phát tiển.
Vì sao người ta uống rượu?
Có người nói, những ai thường hay uống rượu không phải là họ thích rượu, mà là thích cảm giác uống rượu. Uống rượu là để giãi bày tình cảm. Uống say là để khiến cho cái thân tâm mệt mỏi này có thể giải tỏa áp lực và được an ủi.
Gặp gỡ người khác có lúc có thể giãi bày tâm sự, có lúc lại không thể mở lời. Có những lời không thể nói ra khi gặp mặt nhau, cũng có những lời không thể nói vào những lúc tỉnh táo. Chỉ khi ý thức mơ hồ thì mới có thể nói ra miệng. Lúc uống say mới có thể nói ra những điểm không đúng của đối phương. Lúc uống say nói ra thì không bị người ta quở trách.
Cũng có người uống rượu để không cách nào thổ lộ tâm tình với người khác, uống cho say mèm, uống cho gục ngã, không say không dừng, như thế họ mới không cảm thấy khó chịu. Có người nói, những ai không uống rượu thì không hiểu phong thổ nhân tình, bởi lẽ uống rượu là để những việc cất giấu trong tim theo lời rượu mà đi ra. Tâm sự chìm đắm trong men rượu, một khi đã say thì nỗi sầu biến mất.
Với những ai uống rượu thì rượu đựng trong chén, chén cầm trên tay, lời nói nằm ở rượu và tình cảm chôn trong tim mình. Sự chính trực, quang minh lỗi lạc, ung dung tự tại cùng với phong cách uống rượu, phẩm chất của rượu và thái độ uống rượu trong những buổi tiệc rượu đều phản ánh ra lúc nâng chén vui vẻ với nhau. Những người có lễ nghĩa tôn nghiêm, những người bình dân tầm thường, sự thay đổi nơi thế gian, sự đổi thay của lòng người thế gian đều triển hiện rõ trong buổi tiệc rượu.
Tửu trường giống như vũ đài chốn nhân gian. Có những người say rồi nhưng vẫn nói mình tỉnh táo! Bởi vì họ muốn chứng minh rằng mình vẫn có thể uống. Có những người tỉnh táo nhưng biện hộ nói mình đã say rồi! Bởi vì họ không muốn tiếp tục uống nữa.
Đời người lên lên xuống xuống tựa như việc uống rượu vậy. Một chén đầu tiên còn tỉnh táo, khí độ ngạo nghễ vạn trượng, ta vẫn còn trẻ. Đến chén thứ hai đã hơi say nhưng vẫn muốn uống, như say như không say, nhìn lại đã sang trung niên. Chén thứ ba là đã say, tỉnh lại thì hối hận ta đã già rồi.
Vì sao người ta uống trà?
Cuộc sống giống như uống trà, từ từ mà hồi tưởng những điều đã qua thì mới có thể nếm ra hương vị.
Có lúc thời gian chờ cho lá trà nở quá lâu thì sẽ cảm thấy khổ. Giống như gặp phải việc không thể mở lời cũng sẽ cảm thấy đau khổ vô cùng. Có lúc độ ấm của nước pha trà vừa tới, vị đậm nhạt vừa đủ, lá trà đã nở thì phát ra hương thơm nhè nhẹ, thoang thoảng. Uống vào hương vị vẫn còn lưu lại giống như gặp phải việc mà có thể mở lòng nói ra, sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Đời người có đắng có ngọt, khổ tận cam lai, đó là trạng thái bình thường. Đời người gian khổ cũng giống như việc thưởng trà vậy. Bắt đầu sẽ có chút vị đắng chát, đến lúc trung niên thì khổ tận cam lai, bước sang tuổi già thì hết thảy đều đạm bạc sau chốn phồn hoa. Thành bại cũng tốt, đẹp xấu cũng xong, cuối cùng cũng về với cát bụi, phẩm cách lu mờ.
Ấm trà có hạn nhưng vị trà thì vô hạn. Điều giá trị nhất chính là vị trà.
Lá trà làm nhớ đến kí ức thu hoạch vào trời xuân. Uống trà vào bất cứ mùa nào trong năm đều có thể cảm thấy ánh dương rực rỡ của ngày xuân. Trà ngon bất kể gặp người nào đều có thể toát lên bản sắc của sinh mệnh. Bất kể cao quý hay bần hàn, hành vi thuận đạo lí hay cường bạo đều sẽ không thay đổi hương vị của bản thân mình.
Trà là một loại phong cách, có thể là sự trầm mặc muốn nói ra nhưng còn e ấp, là tư thái ưu tư mỏng manh nhu mỳ, là sự lặng lẽ sau khi đã trải qua “thiên hồng nhất bôi, vạn diễm đồng diêu” (ý tứ là: hồng trần nghìn năm một chén trà, vô vàn diễm lệ ấm trà xanh).
Uống trà là một loại tâm cảnh, tịnh hóa thân tâm, mài giũa tính bồng bột, trầm lắng suy tư. Nhân sinh một đời cùng với xuân hạ thu đông, phong hoa tuyết nguyệt, đắng cay ngọt bùi. Có thành công, cũng có thất bại; có vui cười, cũng có đẫm lệ; có thuận cảnh, cũng có nghịch cảnh. Điều quan trọng là chúng ta lấy chủng tâm thái nào để đối diện với cuộc đời.
Một người ngồi trong gian phòng, tay nâng chén trà, ngắm nhìn những lá trà chìm nổi trong nước. Lá trà cần phải nở ngập trong nước đun sôi thì mới đậm vị, cũng như đời người cần trải qua rèn luyện thì mới có thể thản nhiên.
Đời người như lá trà, cuộc sống như việc thưởng trà vậy. Từ đó, hi vọng chúng ta có thể lĩnh hội ý nghĩa chân thật của nhân sinh.
Vạn trượng hồng trần tam bôi tửu
Thiên thu đại nghiệp nhất hồ trà
Dịch nghĩa:
Hồng trần cuồn cuộn ba chén rượu
Đại nghiệp nghìn thu một ấm trà
Những ưu tư trong chốn hồng trần sẽ rơi vào lãng quên trong vài ba chén rượu, tham vọng và cơ nghiệp vang danh trên thế gian đều tiêu tan trong tiệc trà chiều. Nhưng ấm trà này ta uống với ai đây? Chén rượu này để cho ai uống? Thấu hiểu được những điều này thì bạn có thể sống thanh thản cả đời.
Rượu, thời xưa, trước tiên dùng trong lễ nghi: vô tửu bất thành lễ. Trong đời thường, rượu trong tiệc tùng, ăn uống , bạn bè gọi là nhậu. Người đàn ông Việt Nam xưa nay tự cho rằng Nam vô tửu như kỳ vô phong, và lắm người tự hào mình là đệ tử của Lưu Linh, một nhân vật văn học nổi tiếng về tửu lượng.
Rượu là một trong những phát minh kỳ diệu nhất của con người. Từ đời xưa, rượu được dùng để tế lễ thần linh, để các vua chúa tiếp đãi nhau, và cũng để mọi người dân chúc nhau trong những lúc vui vẻ, chẳng hạn vào dịp Tết đến xuân về. Nhưng trong rượu có một ma lực gì đó (ma men) làm cho người uống có thể thay đổi sắc thái, đôi khi không tự chủ được và có thể biến thành một người khác hẳn. Vì thế sách cổ có “xếp loại” khi uống rượu là Tiên tửu, Phật tửu, Cuồng tửu, Tục tửu hoặc Ti tửu. Rượu uống với người tri âm, tri kỉ, thổ lộ được với nhau những nỗi niềm tâm sự mà ngay cả người thân trong gia đình cũng không nói được. Lúc này càng uống càng tỉnh. Đó là Tiên tửu. Rượu uống say rồi ngủ khì, đó là Phật tửu. Rượu vào lời ra, nói năng văng mạng, ăn uống thô tục, gây gổ đánh nhau, đó làTục tửu. Mượn chén rượu để khích bác, bói xấu nhau một cách vô liêm sỉ, đó là Ti tửu (ti ở đây ta hiểu theo nghĩa ti tiện).
Trong dân gian có nhiều chuyện về trà và rượu, mặc dù hai thức uống đó không dùng cùng một lúc, nhưng sự thâm thúy của nó thì vô cùng bởi ngoài là thú ẩm thực, lại là cách để phòng bệnh:
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh nhứt trản trà
Nhất nhất đắc như thử
Lương y bất đáo gia
(Nửa đêm uống ba chung rượu
Sớm mai uống một chén trà
Ngày nào cũng làm như vậy
Thầy thuốc chẳng cần đến nhà).
Ta cũng hình dung được những thời khắc đó đối với người sành trà, rượu nó có ý nghĩa và giá trị như thế nào. Cái thanh vắng lúc nửa đêm thức giấc, chợt tỉnh mà uống đôi ba chén rượu, càng làm cho tâm hồn, trí óc thư thái minh mẫn, suy ngẫm thấu đáo sự đời, thân phận. Cũng như khi ánh mặt trời sắp ửng hồng, ló dạng trong màn sương và làn gió sớm ban mai, trong vắt âm thanh mà uống một cốc trà thì còn gì sảng khoái, tỉnh táo sau một đêm dài say ngủ, mơ màng.
Không hiếm những bữa rượu, cuộc rượu, tiệc rượu, cuốc rượu, tối rượu, chén rượu, mâm rượu, bàn rượu đã trở thành tri âm tri kỷ, trở thành câu hẹn, lời thề, sự trân trọng biết ơn, sự nhớ thương dịu vợi ở những con người lấy chữ tâm, chữ đức trong sáng làm trọng.
Rồi từ rượu, lại có những câu ám chỉ, đại loại: “Nam vô tửu, như kỳ vô phong” (Đàn ông không rượu, như lá cờ không có gió). Ý nói, rượu làm cho các đấng mày râu mới mạnh mẽ, dũng mảnh, oai vệ hơn. Nhưng sợ nhất là “Tửu nhập ngôn xuất” (Rượu vào lời ra), lại ra những lời dữ dằn, tục tĩu, không làm chủ được bản thân, gây lắm điều bất bình tai hại khôn lường, của đám “đệ tử Lưu Linh”, để cho ma men lung lạc.
Theo những thuyết đó, thì có đến ba bảy cách dùng rượu, dùng trà. Tưởng như “trà tam, tửu tứ” được coi như cái thú ở đời, mà mỗi thứ đều chứa đựng niềm vui thú hiếm hoi không dễ gì có được ở các loại ẩm thực khác. Nhưng mỗi việc hiểu một cách chính xác con số “tam và tứ” (trà ba, rượu bốn) mà cha ông ta truyền lại cũng đã khó khăn. “Ba và bốn” nó là số thứ tự hay là số lượng? Uống ba cốc trà và bốn chén rượu là đủ. Căn cứ vào đâu, lý do gì, vì sao chỉ uống chừng đó? Hay là ba người, bốn người cùng uống… Sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau cùng tồn tại. Mọi cách suy đoán đều được chấp nhận bởi đều có lý, tùy theo hoàn cảnh mà vận dụng khi nhắm rượu và thưởng trà, miễn sao, đều phải đẹp, vui và không làm phiền đến người khác.
Có người giải thích “trà tam” là cuộc trà chỉ nên có ba người. Ba người cùng tận hưởng thì mới vui, hai người vẫn là số ít, còn một người thì chả có gì lý thú, thi vị. Còn “tửu tứ” là bữa rượu phải có bốn người ngồi chạm ly (chén) đối ẩm thù tạc, khề khà với nhau qua hơi men mới thấm thía tận gan ruột. Như thế “tam, tứ” (ba, bốn) ở đây chỉ số lượng chủ thể là người uống.
Cũng có thuyết cho rằng, uống trà phải đủ ba cốc mới thưởng thức hết được cái hương vị chát ngọt của trà, lúc đó mới thông nhuận được thần khí hào sảng. Còn rượu phải bốn chén mới ngấm từ đầu lưỡi vào ngũ tạng và mùi vị sực nức mới đủ tỏa hương dẫn tới ngà ngà. Có một lập luận mềm dẻo hơn cho rằng “trà tam” là trà pha đến nước thứ ba mới đích thực nước cốt của trà cả về màu sắc lẫn tinh chất. Còn nước một chỉ là rửa trà, nước hai còn chát, cứng, nước thứ tư trở đi gần như loãng, nhạt, mùi vị rơi rớt. Như vậy, “trà tam” là nhấn mạnh đến phương thức pha chế và chất lượng của trà, chứ không phải loại trà nào cũng qua ba bước, ba bận mới ngon.
Còn rượu thì nồng độ phải là “sủi tăm”, “cuốc lủi”, sực nức cay nồng, không nhạt thếch, không cháy cổ mới là rượu ngon, nhắm đến chén thứ tư “tửu tứ” là vừa đủ độ ngà, là ranh giới giữa chừng mực và độ bốc, ngây ngất trong men, trong hương rượu. Mấy lý lẽ vừa nói, có lẽ là quá trình chiêm nghiệm, “tổng kết” của cha ông ta từng trải trong thế giới nhắm rượu, thưởng trà hàng mấy trăm năm mà ra.
Cụ Tam Nguyên Yên Đổ – Nguyễn Khuyến cũng nói thật lòng về cái bi, hài của bậc túc nho thi bá của các cụ:
“Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua”
Chỉ có “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” của những người đồng chí hướng, những người thân, bạn hiền cùng ngồi với nhau trong cuộc rượu, cuộc trà thì mới bộc bạch, dịu vợi, như cởi tấm lòng. Không bao giờ kẻ đối nghịch, hung hãn, phản trắc có thể nhắm rượu, thưởng trà một cách văn hóa, thanh lịch. Nếu có, họ uống để bộc lộ hoặc che lấp hành vi phi đạo đức của kẻ tiểu nhân mà thôi. Không cần luận ra, mà nhãn tiền đã cho ta biết hai thái cực, hai đối tượng dùng rượu và trà trong thế gian như tiền nhân đã nói ở trên.
Nhân những ngày cuối năm, khi mà chúng ta luôn tất bật với các buổi kỷ niệm, tổng kết, liên hoan, nhắc lại một chút về văn hóa uống của tổ tiên, để thấy rằng cha ông ta đã luôn cố gắng biến sự uống thành văn hóa. Chúng ta tiếp thu tinh hoa của các cụ, lấy nét đẹp của phong tục uống trà và rượu từ Tây phương hay từ đâu đó, biến thành của mình, ấy cũng là vừa kế thừa vừa phát tiển.
Vì sao người ta uống rượu?
Có người nói, những ai thường hay uống rượu không phải là họ thích rượu, mà là thích cảm giác uống rượu. Uống rượu là để giãi bày tình cảm. Uống say là để khiến cho cái thân tâm mệt mỏi này có thể giải tỏa áp lực và được an ủi.
Gặp gỡ người khác có lúc có thể giãi bày tâm sự, có lúc lại không thể mở lời. Có những lời không thể nói ra khi gặp mặt nhau, cũng có những lời không thể nói vào những lúc tỉnh táo. Chỉ khi ý thức mơ hồ thì mới có thể nói ra miệng. Lúc uống say mới có thể nói ra những điểm không đúng của đối phương. Lúc uống say nói ra thì không bị người ta quở trách.
Cũng có người uống rượu để không cách nào thổ lộ tâm tình với người khác, uống cho say mèm, uống cho gục ngã, không say không dừng, như thế họ mới không cảm thấy khó chịu. Có người nói, những ai không uống rượu thì không hiểu phong thổ nhân tình, bởi lẽ uống rượu là để những việc cất giấu trong tim theo lời rượu mà đi ra. Tâm sự chìm đắm trong men rượu, một khi đã say thì nỗi sầu biến mất.
Với những ai uống rượu thì rượu đựng trong chén, chén cầm trên tay, lời nói nằm ở rượu và tình cảm chôn trong tim mình. Sự chính trực, quang minh lỗi lạc, ung dung tự tại cùng với phong cách uống rượu, phẩm chất của rượu và thái độ uống rượu trong những buổi tiệc rượu đều phản ánh ra lúc nâng chén vui vẻ với nhau. Những người có lễ nghĩa tôn nghiêm, những người bình dân tầm thường, sự thay đổi nơi thế gian, sự đổi thay của lòng người thế gian đều triển hiện rõ trong buổi tiệc rượu.
Tửu trường giống như vũ đài chốn nhân gian. Có những người say rồi nhưng vẫn nói mình tỉnh táo! Bởi vì họ muốn chứng minh rằng mình vẫn có thể uống. Có những người tỉnh táo nhưng biện hộ nói mình đã say rồi! Bởi vì họ không muốn tiếp tục uống nữa.
Đời người lên lên xuống xuống tựa như việc uống rượu vậy. Một chén đầu tiên còn tỉnh táo, khí độ ngạo nghễ vạn trượng, ta vẫn còn trẻ. Đến chén thứ hai đã hơi say nhưng vẫn muốn uống, như say như không say, nhìn lại đã sang trung niên. Chén thứ ba là đã say, tỉnh lại thì hối hận ta đã già rồi.
Vì sao người ta uống trà?
Cuộc sống giống như uống trà, từ từ mà hồi tưởng những điều đã qua thì mới có thể nếm ra hương vị.
Có lúc thời gian chờ cho lá trà nở quá lâu thì sẽ cảm thấy khổ. Giống như gặp phải việc không thể mở lời cũng sẽ cảm thấy đau khổ vô cùng. Có lúc độ ấm của nước pha trà vừa tới, vị đậm nhạt vừa đủ, lá trà đã nở thì phát ra hương thơm nhè nhẹ, thoang thoảng. Uống vào hương vị vẫn còn lưu lại giống như gặp phải việc mà có thể mở lòng nói ra, sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc.
Đời người có đắng có ngọt, khổ tận cam lai, đó là trạng thái bình thường. Đời người gian khổ cũng giống như việc thưởng trà vậy. Bắt đầu sẽ có chút vị đắng chát, đến lúc trung niên thì khổ tận cam lai, bước sang tuổi già thì hết thảy đều đạm bạc sau chốn phồn hoa. Thành bại cũng tốt, đẹp xấu cũng xong, cuối cùng cũng về với cát bụi, phẩm cách lu mờ.
Ấm trà có hạn nhưng vị trà thì vô hạn. Điều giá trị nhất chính là vị trà.
Lá trà làm nhớ đến kí ức thu hoạch vào trời xuân. Uống trà vào bất cứ mùa nào trong năm đều có thể cảm thấy ánh dương rực rỡ của ngày xuân. Trà ngon bất kể gặp người nào đều có thể toát lên bản sắc của sinh mệnh. Bất kể cao quý hay bần hàn, hành vi thuận đạo lí hay cường bạo đều sẽ không thay đổi hương vị của bản thân mình.
Trà là một loại phong cách, có thể là sự trầm mặc muốn nói ra nhưng còn e ấp, là tư thái ưu tư mỏng manh nhu mỳ, là sự lặng lẽ sau khi đã trải qua “thiên hồng nhất bôi, vạn diễm đồng diêu” (ý tứ là: hồng trần nghìn năm một chén trà, vô vàn diễm lệ ấm trà xanh).
Uống trà là một loại tâm cảnh, tịnh hóa thân tâm, mài giũa tính bồng bột, trầm lắng suy tư. Nhân sinh một đời cùng với xuân hạ thu đông, phong hoa tuyết nguyệt, đắng cay ngọt bùi. Có thành công, cũng có thất bại; có vui cười, cũng có đẫm lệ; có thuận cảnh, cũng có nghịch cảnh. Điều quan trọng là chúng ta lấy chủng tâm thái nào để đối diện với cuộc đời.
Một người ngồi trong gian phòng, tay nâng chén trà, ngắm nhìn những lá trà chìm nổi trong nước. Lá trà cần phải nở ngập trong nước đun sôi thì mới đậm vị, cũng như đời người cần trải qua rèn luyện thì mới có thể thản nhiên.
Đời người như lá trà, cuộc sống như việc thưởng trà vậy. Từ đó, hi vọng chúng ta có thể lĩnh hội ý nghĩa chân thật của nhân sinh.
Vạn trượng hồng trần tam bôi tửu
Thiên thu đại nghiệp nhất hồ trà
Dịch nghĩa:
Hồng trần cuồn cuộn ba chén rượu
Đại nghiệp nghìn thu một ấm trà
Những ưu tư trong chốn hồng trần sẽ rơi vào lãng quên trong vài ba chén rượu, tham vọng và cơ nghiệp vang danh trên thế gian đều tiêu tan trong tiệc trà chiều. Nhưng ấm trà này ta uống với ai đây? Chén rượu này để cho ai uống? Thấu hiểu được những điều này thì bạn có thể sống thanh thản cả đời.